Tôi viết về loài hoa cỏ may, loài hoa mong manh và cũng hết sức mạnh mẽ.Nó là loài hoa không hương, không sắc, một loài hoa mà người đời né tránh, chẳng ai muốn chạm vào. Chẳng ai gieo, ai trồng, ai sớm hôm chăm chút cắt tỉa, mặc bão táp mưa sa, nó vẫn sống dai dẳng và lan nhanh hơn bất cứ loài hoa cỏ nào.
Loài hoa từng ám ảnh
chàng thi sĩ chân quê đa tình Nguyễn Bính thuở nào: “Lòng anh như hoa cỏ may/ Một
chiều cả gió bám đầy áo em”. Và một nữ sĩ nữa từng viết: “Cho tôi làm cỏ may để
giữ người yêu lại” …Tất cả những hình tượng trong thơ đã để lại trong tôi những
xốn xang, bồi hồi đến kỳ lạ.
Cỏ
may vẫn nở ven đê
Khâu
vào thương nhớ lời thề ngày xưa
Hoàng
hôn lỡ chuyến đò đưa
Chiều
nay cơn gió trở mùa rưng rưng
![]() |
Ý nghĩa hoa cỏ may |
Về thành phố, sau tất cả những ồn ào và
sang trọng, mỗi chúng ta ai không có một lần nhớ về làng quê yêu dấu, nhớ về những
miền hoa cỏ ngày xưa để đi tìm cho mình những câu chuyện về những loài hoa mọc
triền đê ven đường. Tôi muốn giới thiệu một sự tích về một loài hoa với cái tên
dân dã, bình dị “Hoa cỏ may”
Sự tích hoa cỏ may
Hoa cỏ
may là hóa thân của một cô gái giàu có xinh đẹp, cô lỡ yêu thương một anh trai
nghèo bố mẹ nàng không chấp thuận và đuổi nàng ra khỏi làng. Vì tình yêu nàng
cùng chàng bỏ đi đến một nơi thật xa sống một cuộc sống bình dị. Nhưng cuộc sống cơ cực đã biến nàng từ một tiểu
thư khuê các thành một người đàn bà lam lũ. Nhìn người vợ trẻ rất mực yêu
thương phải vất vả đầu tắt mặt tối, chàng không an lòng. Chàng trai vì thương vợ
nên quyết tâm ra đi làm ăn xa, rồi chàng không trở về. Cô gái đau khổ đi tìm
chàng trai, Nàng cứ đi, đi mãi, cho đến
một ngày không còn bước đi nổi nữa. Nàng nằm xuống, trong lòng vẫn đau đáu nỗi
niềm chờ mong, hy vọng.
Cảm kích trước tình yêu son sắt thủy chung của người vợ trẻ, sau khi nàng chết, Ngọc Hoàng đã hóa phép biến nàng thành một loài hoa cỏ – hoa tình yêu. Người đời gọi loài ấy là hoa Cỏ May.
Hoa màu tím bạc như tình yêu thủy chung của nàng, hình dáng sắc nhọn nhức nhối một mối tình trong xa cách vẫn cố bấu víu vạt áo quần người đi đường hỏi thăm tin tức chàng trai.
Cảm kích trước tình yêu son sắt thủy chung của người vợ trẻ, sau khi nàng chết, Ngọc Hoàng đã hóa phép biến nàng thành một loài hoa cỏ – hoa tình yêu. Người đời gọi loài ấy là hoa Cỏ May.
Hoa màu tím bạc như tình yêu thủy chung của nàng, hình dáng sắc nhọn nhức nhối một mối tình trong xa cách vẫn cố bấu víu vạt áo quần người đi đường hỏi thăm tin tức chàng trai.
![]() |
Cách đồng cỏ may |
Có đúng đây là loài hoa không hương, không sắc?
Nếu ai đó đã từng thực sự một lần đứng
giữa đồng cỏ may, thật sự tận hưởng vẻ đẹp, mùi hương của loài hoa nhỏ bé ấy
thì mới thực sự biết rằng hoa cỏ may cũng đẹp và thơm không kém gì các loài hoa
kiêu sa khác, mùi thơm dịu dịu thoang thoảng mà chỉ có ai thực sự muốn mới cảm
nhận được.
Ý nghĩa hoa cỏ may
Hoa cỏ may sắc nhọn, nhức nhối một nỗi niềm đau của tình yêu trong xa cách.Hoa cỏ may còn mang một ý nghĩa như nhắc nhở những ai đang yêu hãy yêu bằng trái tim, ánh mắt, nụ cười mạnh mẽ, cuồng si.
![]() |
Ý nghĩa hoa cỏ may |
Hoa cỏ may còn gọi là bông cỏ, thảo
tử hoa, trúc tiết thảo.
Tên khoa học Chrysopogon acicuiratus
(Retz.) Trivialis Lour.
Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramìneae).
Cây cỏ may là một loại cỏ sống lâu năm,
thân rễ cứng mọc bò. Thân mọc bò lan trên mặt đất, mọc đến đâu bén rễ đến đó:
Những thân mọc thẳng lên cao 20-50cm, có nhiều đốt, đốt phía gốc ngắn hơn phía
trén. Lá mọc so le, lá phía dưới mọc mau, lá phía trên mọc thưa hơn.
Phiến lá hẹp dài 2-10cm, rộng 3-5mm, đầu
nhọn, phía cuống tròn, nhẵn. Cụm hoa mọc thành chùy dài 5-10cm, màu tím than,
có những nhánh mọc vòng mang hoa mọc thành bông dài 8mm. Quả khi chín có thể
móc vào quần áo khi người ta đi qua do đó có tên cỏ may. Và cũng do hình thức
này, cây lan từ vùng này sang vùng khác.
Phân bố
Cỏ may mọc hoang ở khắp nơi ở Việt Nam. Còn mọc ở các nước khác vùng châu Á như Ấn
Độ, Thái Lan, Miến Điện, nam Trung Quốc.
Công dụng
Cây cỏ may còn là một vị thuốc dùng trong nhân
dân. Tại vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, có người dùng cỏ may chữa bệnh da
vàng, mắt vàng, bệnh về gan.
Theo sự điều tra của A. Sallet (1931) tại
Vinh có người gọi cây này là nam hoàng liên và nhân dân ở Huế và một sổ tính
miền Trung dùng nó chữa bệnh giun.
Cũng có người dùng cây hái về phơi khô hay
sao vàng, có người chỉ dùng quả.
0 comments:
Đăng nhận xét